Tính cách người Quảng trong ca dao xứ Quảng (Kỳ 1)
Văn học dân gian là kho tàng lưu giữ truyền thống văn hóa dân tộc và tính cách của con người từ ngàn xưa cho đến nay. Ca dao xứ Quảng cũng phản ánh toàn bộ truyền thống, đời sống, văn hóa… xứ Quảng, đặc biệt hơn cả là tính cách của người Quảng được thể hiện sâu sắc, độc đáo và đầy ấn tượng…
Theo cách hiểu chung thì tính cách “là tổng thể những đặc điểm tâm lý ổn định trong cách cư xử của con người, biểu hiện thái độ điển hình của con người đó trong những hoàn cảnh điển hình. Từ ý nghĩa ấy chúng ta có thể suy ra rằng, tính cách của cư dân một vùng đất là tổng thể những đặc điểm tâm lý mang tính bền vững trong cách ứng xử của họ, có thể là của nhiều thế hệ nối tiếp nhau, được biểu lộ bằng những nét điển hình trong hoàn cảnh điển hình”(Mai Văn Mô, Văn hóa Quảng Nam những giá trị đặc trưng, Kỷ yếu hội thảo 2011, Sở Văn hóa Thông tin Quảng Nam, tr 205). Xin được dùng danh từ xứ Quảng để chỉ thành phố Đà Nẵng (Thành phố trực thuộc Trung ương) và tỉnh Quảng Nam vì trong lịch sử hình thành, phát triển, nhất là về mặt văn hóa dân gian thì hai địa danh này không thể tách rời nhau như cách chia tách đơn vị hành chính (1997). Nhà nghiên cứu, TS. Mai Bá Ấn khẳng định: “Theo lý thuyết văn hóa học, muốn xác định vị trí của một nền (vùng) văn hóa cần phải xác định bằng một hệ tọa độ ba chiều: Thời gian văn hóa, Không gian văn hóa và Chủ thể văn hóa. Trong đó, Không gian văn hóa là một “khái niệm mờ”. Nó dựa trên không gian lãnh thổ nhưng hoàn toàn không đồng nhất với không gian lãnh thổ mà chấp nhận những vùng giao thoa, chồng khít lên nhau giữa các dân tộc, các vùng miền lân cận nhau”.
Xét về mặt văn hóa nói chung và văn hóa dân gian nói riêng thì Quảng Nam và Đà Nẵng là một vùng hoàn toàn thống nhất trong tâm thức văn hóa từ ngàn đời nay. Việc nghiên cứu văn hóa dân gian trong một phạm vi hẹp (tỉnh) là vô cùng khó khăn vì những đặc trưng của văn hóa hoàn toàn không phụ thuộc vào ranh giới hành chính. Quảng Nam – Đà Nẵng lại nằm trong phổ văn hóa Nam Trung bộ, với sự đồng nhất cao độ về mặt văn hóa dân gian nên không thể tách rời. Trên cơ sở đó, tất cả tư liệu dân gian và kết quả nghiên cứu đều là của chung cho cả Quảng Nam và Đà Nẵng.
Thể thơ của ca dao là lục bát có cấu trúc ưu việt và hoàn hảo. Cứ một câu sáu tiếng lại một câu tám tiếng xen kẽ đều đặn lẫn nhau với cả yêu vận (vần lưng) và cước vận (vần chân), luật bằng – trắc rõ ràng làm tăng tính nhạc, nhịp điệu êm đềm sâu lắng, ngọt ngào… Tuy vậy, theo bước chân của đoàn người Nam tiến trong lịch sử, vào đến Quảng Trị, Thừa Thiên Huế… ca dao đã bắt đầu có sự biến thể. Đến xứ Quảng, ta thấy những câu ca dao biến thể ngày càng xuất hiện nhiều và rõ ràng hơn. Từ miền núi xuống đồng bằng ra miền biển, đâu đâu ta cũng thấy, cũng nghe những bài ca, câu hát vượt hẳn ra cái khung lục bát. “Điều ấy, vừa là biểu hiện sinh động của sự biến đổi ngôn ngữ, cách bày tỏ, mà cũng là biểu hiện rõ ràng cho cái khí chất của con người ở vùng đất này, không ưng sự câu thúc, không thích cứ đi theo đường cũ. Điều cần chú ý ở lục bát biến thể là về số chữ, câu 6 không còn là 6 tiếng, mà có thể nhiều hơn 6 tiếng, còn câu 8 thì có thể có tới 10, 12, 14 tiếng. Cách gieo vần cũng khác, tuy có những câu vẫn giữ theo cách gieo vần của thể lục bát” (Nguyễn Văn Bổn, Văn học dân gian Quảng Nam (Miền biển), Sở Văn hóa Thông tin Quảng Nam, 2001, tr 158). Nắm bắt được đặc điểm này, giúp cả người nghiên cứu và người đọc không còn bỡ ngỡ trước những câu ca dao biến thể “phóng túng hình hài”, mới mẻ về vần điệu và luật bằng – trắc của người Quảng.
1. Giản dị, cần cù, chịu khó, tiết kiệm
Nói về tính cách người Quảng, nhà nghiên cứu văn hóa, văn học dân gian, Nguyễn Văn Bổn khẳng định: “Những cuộc đời gian khổ trên sóng nước cứ thế kéo dài, chẳng có bao nhiêu hi vọng ở ngày mai. Vậy mà họ vẫn kiên trì chiến đấu với sóng gió, mưa bão bất thường để sống, để xây dựng vùng đất biển này. Cái sức sống ấy thực sự là một sức mạnh tiềm tàng, nhưng mãnh liệt” (Văn học dân gian Quảng Nam (Miền biển), Sở Văn hóa Thông tin Quảng Nam, tr 38). Do điều kiện sống khó khăn, thời tiết khắc nghiệt, đất đai cằn cỗi, cộng với bản chất chăm chỉ chịu thương chịu khó của những người gốc Bắc, cư dân Quảng Nam ngày nay “phần lớn, nếu không muốn nói là tuyệt đại đa số, đều có quê gốc ở miền Bắc mà chủ yếu là vùng Thanh Hóa, Hà Tĩnh, Nghệ An và một số từ Nam Định, Hải Dương, Hưng Yên… vào đây theo những đợt di dân khác nhau” (Nguyễn Văn Bổn (Biên soạn), Văn học dân gian Quảng Nam (Miền biển), Sở Văn hóa Thông tin Quảng Nam, tr 26). Cuộc di dân này bắt đầu từ thế kỷ XIV bởi cuộc hôn nhân giữa Huyền Trân công chúa và vua Chế Mân với sính lễ là hai vùng đất Châu Ô và Châu Rí (Từ phía bắc sông Thu Bồn đến Đà Nẵng). Sau đó tăng nhanh trong đợt di cư theo cha con Hồ Quý Ly vào năm 1402. Sau nữa là cuộc di dân theo Lê Thánh Tông (1471), chúa Nguyễn vào thế kỷ XVI và XVII… Tất cả, tạo nên cho người Quảng một đặc điểm tính cách nổi bật là: giản dị, cần cù, chịu khó, tiết kiệm. Đây là đặc điểm chung của người Việt Nam nhưng ở người Quảng, nó được hội tụ một cách đặc sắc và nổi bật hơn hẳn.
“Đầu hè có buồng chuối non,
Để dành xáo, ghế cho con ăn lần.
Khoai từ, khoai choái, khoai nần,
Còn một vạt bắp trước sân chưa già.
Với hủ sắn lát trong nhà,
Để dành xáo, ghế cho qua tháng ngày”.
Bằng biện pháp liệt kê, các sản vật đặc trưng của vùng đất mưa lụt, nắng cháy xuất hiện một cách tăng dần đều với: “chuối non”, “khoai từ”, “khoai choái”, “khoai nần”, “bắp”, “sắn”… Các động từ “xáo”, “ghế” thể hiện cách chế biến món ăn từ các sản vật ấy làm rõ tính cách của con người “Tối ăn khoai đi ngủ, sớm ăn củ đi làm”. Đặc biệt nhất là hai động từ “để dành” nằm ở đầu đoạn và cuối đoạn càng khắc sâu hơn nữa đặc điểm tính cách của người Quảng. Các nông sản được liệt kê là những cây trồng rất dễ tính, có khả năng sinh trưởng và cho sản lượng cao trên các vùng đất cằn cỗi khắc nghiệt dưới bàn tay cần cù của người lao động. Tất cả sự giản dị, chịu thương, chịu khó, tiết kiệm được gói gọn một cách khéo léo trong động từ “để dành”. “Theo giáo sĩ Christofoco (người Ý) đến đây năm 1681: Dưới con mắt của người ngoại quốc, người Đằng Trong siêng năng, ưa làm lụng, tránh sự ăn không ngồi rồi, đàn bà khéo dệt vải và làm bánh trái” (Nguyễn Chí Trung, Văn hóa Quảng Nam những giá trị đặc trưng, Kỷ yếu hội thảo 2011, Sở Văn hóa Thông tin Quảng Nam, tr 84).
“Con cò lặn lội bờ sông
Cổ dài, mỏ cứng, cánh cong, lưng gù.
Bãi xa, sông rộng, sóng to,
Vì lo cái bụng đi mò cái ăn”.
Thông qua thủ pháp ẩn dụ, hình ảnh người lao động xứ Quảng được khắc họa bằng biểu tượng con cò với những đặc điểm ngoại hình chỉ có trong ca dao xứ Quảng: cổ dài, mỏ cứng, cánh cong, lưng gù để thích nghi với điều kiện công việc nặng nhọc, khó khăn… Dân gian xứ Quảng tỏ ra vô cùng sáng tạo khi lựa chọn và sử dụng hình ảnh ngoại giới để thể hiện đức tính cần cù, chịu khó của con người. Điều này tạo ra hiệu quả rất cao trong việc khắc họa hình ảnh, bản chất người lao động, hiệu ứng thẩm mỹ và biểu cảm đối với người đọc. Người Quảng không chỉ cần cù, chịu khó mà còn sẵn sàng đối mặt với sự hiểm nguy, mạnh mẽ chinh phục và kiên cường chiến thắng thiên nhiên. Điều này vốn đã được tiền nhân ghi nhận trong sách Đại nam nhất thống chí: “Học trò chăm học hành, nông phu chăm làm ruộng” vì chính bản thân họ ý thức rằng:
“Muốn no thì phải chăm làm,
Một hạt lúa vàng, chín giọt mồ hôi”.
Muốn sống trên vùng đất này, không còn cách nào khác là phải cần cù lao động, tiết kiệm trong đời sống và chi tiêu. Mỗi con người phải tự học tập rèn luyện cho mình sức mạnh, bản lĩnh và kỹ năng vượt qua mọi khó khăn, thử thách.
“Làm trai phải biết trăm nghề,
Phòng khi lỡ vận thì về mót khoai.
Mót được củ chạc củ chài,
Củ giắt ngang bụng, củ nhai tức thì”.
Đôi tay và khối óc người Quảng là sản phẩm hoàn hảo, đa năng, đa dụng của sự kết hợp giữa tạo hóa và trí tuệ vì thế có khả năng ứng phó nhanh chóng và ưu việt trong mọi tình huống xấu nhất “phòng khi lỡ vận thì về mót khoai”. Dù ở bất kỳ hoàn cảnh nào, ở họ luôn toát lên bản chất tiết kiệm, phòng xa “củ giắt ngang bụng, củ nhai tức thì”.
“Bồng con đi dạo vườn cà,
Trái mô non chấm mắm, trái mô già làm dưa.
Làm dưa dưa mặn dưa chua,
Để dành ăn hết đừng mua tốn tiền”.
Bản chất tiết kiệm, chịu khó là một nét đẹp đặc biệt trong tâm hồn người phụ nữ xứ Quảng. Đây là nguồn gốc của sự đảm đang, khéo léo, giản dị mà thanh khiết, đạm bạc mà thắm thiết. “Bồng con đi dạo vườn cà/ Trái mô non chấm mắm, trái mô già làm dưa” là một bức tranh thôn dã thật đẹp và đáng yêu với đường nét mộc mạc, màu sắc bình dị nhưng không kém phần tinh tế khi có sự kết hợp giữa màu áo nâu của người phụ nữ bên cạnh màu xanh vườn cà điểm những bông hoa tím. Câu ca dao: “Làm dưa dưa mặn dưa chua/ Để dành ăn hết đừng mua tốn tiền” là đỉnh điểm bản chất tiết kiệm, trở nên đáng thương như hình ảnh người đàn ông cần cù lao động, mà không đòi hỏi bất kỳ điều kiện nào dưới trời nắng chang chang: “Chú kia nhổ đậu trên nà/ Nước non chẳng có miệng đà lấm lem”.
“Tay nâng đĩa muối sàng rau
Đặt lên quảy mẹ ruột đau chín chiều”.
Hình ảnh mâm cơm cúng mẹ ngày giỗ chỉ với “đĩa muối” và “sàng rau” càng làm rõ hơn bản chất giản dị, cần cù, chịu khó và tiết kiệm. Người Quảng không chỉ giản dị trong đời sống, sinh hoạt và lao động hằng ngày mà còn giản dị trong quan niệm, trong suy nghĩ về mọi thứ, nhất là suy nghĩ về tình yêu và hôn nhân, hạnh phúc gia đình.
“Hai tay bứt dạt chè tàu,
Vừa đôi thì lấy nghèo giàu làm chi”.
Ở họ không có cái tinh tế, hào hoa, kín đáo tế nhị như người miền Bắc khi mượn cớ để làm quen: “Hôm qua tát nước đầu đình/ Bỏ quên chiếc áo trên cành hoa sen” mà rất giản dị, thật thà “Vừa đôi thì lấy nghèo giàu làm chi”. Tình yêu của họ luôn gắn với lao động và nảy nở, phát triển cùng lao động.
“Mưa từ Bà Rén mưa ra,
Mưa khắp thiên hạ, mưa qua Cẩm Hà.
Đôi ta không cửa không nhà,
May mô lại gặp cũng là nợ duyên”.
Mỗi đôi nam nữ gặp gỡ và yêu thương bao giờ cũng gắn với một hoàn cảnh cụ thể, gắn với lao động nông nghiệp. Họ thương yêu vì đồng cảm với hoàn cảnh của nhau “đôi ta không cửa không nhà” và đến với nhau để cùng nhau chia sẻ, vượt qua mọi khó khăn “Tội chi đứng sá ngồi đàng/ Sương sa lụy nhỏ, cảm thương hàn ai nuôi” và vươn tới hạnh phúc đơn sơ, bình dị…
Còn tiếp…
Nguyễn Thanh Tuấn
Theo Văn nghệ Đà Nẵng