Sài Gòn chưa xa đã nhớ, thật không?
Chắc chưa bao giờ tên gọi Sài Gòn được lấy cảm hứng để viết sách nhiều như khoảng 5 năm trở lại đây. Chưa có thống kê cụ thể, nhưng con số chắc chắn không dưới 30 đầu sách, từ diễm tình, ngôn tình cho đến tản văn, nghiên cứu, học thuật.
Trong Sài Gòn năm xưa (1960), Vương Hồng Sển từng viết: “Năm 1905 đã có vấn đề nước uống đem ra bàn cãi tại hội đồng thành phố. Công ty Nhà Đèn xướng ra thuyết ít tốn kém cho ngân quỹ là đào thêm giếng lấy nước ngọt ngay tại chỗ. Hãng Balliste có thế lực lớn lại đề nghị dẫn nước thác Trị An về và như thế đô thành sẽ có dư điện lực do sức mạnh của nước làm ra, vĩnh viễn không lo khan nước khan hơi điện. Năm 1904, Xã Tây Cuniac sang Pháp định vay tiền mẫu
quốc mười hai mười ba triệu quan gì đó để thi hành chương trình Balliste. Nhưng Cuniac gặp trở ngại, khi trở về Sài Gòn thì xin từ chức xã trưởng thành phố, và vấn đề nước ăn nước uống cho đến ngày nay vẫn chưa dứt khoát”.
Năm 1966, NXB Thịnh Ký in cuốn Những bước lang thang trên hè phố của gã Bình Nguyên Lộc, đến năm 1999, NXB Trẻ tái bản lại cuốn này. Trong bài Phố của thành phố (in lần đầu 1957), Bình Nguyên Lộc viết: “Nói đến vỉa hè không thể không chú ý đến những vỉa hè mức độ khác nhau, khách đang đi bỗng sụp chơn suýt ngã. Ấy, nhà bên này xây cao một tấc năm, nhà bên kia chỉ xây một tấc thôi mà. Vì mạnh ai nấy xây vỉa hè nên vỉa hè lại mang đủ màu sắc, có quãng xanh, quãng vàng, quãng xám, và lại kiến thiết bằng đủ cả vật liệu: gạch xi-măng, xi-măng trắng, gạch thẻ, gạch Tàu, nhựa, đá ong. Sợ nhứt là vỉa hè đá ong trên đường Thủ Khoa Huân. Đá ong lổm chổm khiến bộ hành không lọi chân cũng trặc cẳng”.
Còn trong Sài Gòn của tôi (phát hành Xuân Canh Tuất 1970), Mặc Đỗ viết: “Đêm Sài Gòn là của hết thảy mọi người, ai cũng có thể tìm thấy cái phần của mình trong thành phố nô nức về đêm. Bởi có đêm Sài Gòn đời sống thấy dễ chịu hơn”
Trích 3 ví dụ cụ thể và khác nhau về góc nhìn như trên để thấy cách tiếp cận Sài Gòn kiểu gì cũng có. Và 5 năm gần đây các cách này được khai thác triệt để, đi vào 3 hướng trên một cách chi tiết hơn nữa. Các sách dạng khảo cứu, nổi bật có bộ ba sách về Sài Gòn – Chợ Lớn của Nguyễn Đức Hiệp, rất khoa học, mới mẻ và rất gần gũi, đầy tính phát hiện. Anh còn dành nhiều công phu với các đề tài về người Minh Hương – người Hoa ở Nam bộ, giao thương Singapore – Sài Gòn – Hong Kong trước năm 1945, hát bội, đờn ca tài tử và cải lương…
Bộ sách Sài Gòn – Chuyện đời của phố của Phạm Công Luận cũng là một cách ngược dòng thời gian thú vị, nó tiếp nối tinh thần của Vương Hồng Sển khi đi vào những mẩu chuyện cụ thể, mới nhìn tưởng rời rạc, nhưng thật ra rất xâu chuỗi, hữu cơ với nhau. Không ngạc nhiên khi bộ này đã in tất cả khoảng 24 ngàn bản.
Cuốn Sài Gòn, đất và người của Nguyễn Thanh Lợi thì đưa ra những lý giải về các cái tên đã quen thuộc như Cát Lái, Gò Vấp, Hàng Xanh, chợ Cây Da Còm, chợ Cây Da Sà, An Thít, Rạch Chiếc, Dần Xây, Thanh Đa… Đồng thời là những tập tục, tín ngưỡng, nét riêng văn hóa của Sài Gòn như chuyện thờ Ông cọp, thờ cá Ông, thờ Bà Chúa Xứ…
Gần đây là cuốn Từ điển lịch sử Sài Gòn – TP.HCM của sử gia Justin Corfield (người Úc), với gần 400 mục từ, trải dài từ địa văn hóa, chính trị, sự kiện, con người, danh xưng… của vùng đất này. Thậm chí cả các yếu tố du nhập vào Sài Gòn như xe cộ, phát thanh truyền hình, xích lô, y tế, giáo dục…
Trong dòng nghiên cứu, biên khảo này còn có Đất Gia Định – Bến Nghe xưa và người Sài Gòn (Sơn Nam), 30.04.75 Saigon – sự kiện và đối thoại của một gia đình (Nguyễn Hữu Thái – Nguyễn Hữu Thiên Nga – Nguyễn Hữu Thái Hòa), Sài Gòn, ba thế kỷ xây dựng và phát triển (nhiều tác giả), Hạ tầng đô thị Sài Gòn buổi đầu (Trần Hữu Quang), Khám lớn Sài Gòn (Vương Hồng Sển)…
Lê Văn Nghĩa thừa nhận: “Với tôi Sài Gòn là cả Việt Nam và Việt Nam đối với tôi là Sài Gòn. Có vẻ cục bộ, nhỏ nhen là như vậy, nhưng biết làm sao được, nó giống như tình yêu, khi yêu ta chỉ biết có hình bóng một người”.
Những sách khai thác cảm xúc riêng tư về Sài Gòn đã chiếm ưu thế về số lượng đầu sách và số lượng phát hành. Như Đi đâu cũng nhớ Sài Gòn và… em của Anh Khang chẳng hạn, đã in 60 ngàn bản. Cùng dòng này còn có Khóc giữa Sài Gòn (tác giả: Nguyễn Ngọc Thạch), Sài Gòn bao nhớ (Đàm Hà Phú), Sài Gòn – Chợ Lớn rong chơi (Hiền Hòa), Sài Gòn, mai gọi nhau bằng cưng (Hạ Dung), Sài Gòn vẫn hát (Mạc Thụy và UBee Hoàng), Sài Gòn mặc khách (Tô Kiều Ngân), Sài Gòn – Cà phê 47 và đủ chuyện quàng xiên (Hiền Hòa), Ve vãn Sài Gòn (chị Đẹp), Sài Gòn cứ vội (Tử An và Ngọc Hoài Nhân), Sài Gòn – Thị thành hoang dại (Khải Đơn), Mùa Hè năm Petrus (Lê Văn Nghĩa), Sài Gòn dòng sông tuổi thơ (Lê Văn Nghĩa), Những câu chuyện Sài Gòn (Phan An), Sài Gòn ve chai (Hiền Hòa)…
“Thực chất số lượng sách viết về Sài Gòn không nhiều như sách viết về các địa phương khác như Hà Nội, Huế…, nhưng gần đây nhiều lên là thấy rõ. Việc độc giả tìm đọc dòng sách này chứng tỏ nhu cầu muốn tìm hiểu về văn hóa, về sự tĩnh lặng, về nét khác biệt của Sài Gòn ngày càng tăng, bên cạnh một Sài Gòn phát triển về kinh tế”, nhà nghiên cứu Đoàn Lê Giang lý giải.
Chúng ta vẫn còn nhớ tờ báo tiếng Việt đầu tiên là Gia Định báo (嘉定報) ra đời ở Sài Gòn ngày 15/4/1865, trước thời kỳ phát triển thật sự của chữ quốc ngữ đến 2 năm (1867). Còn theo Phủ Biên tạp lục của Lê Quý Đôn thì năm 1674 Thống suất Nguyễn Dương Lâm đánh Cao Miên và phá vỡ lũy Sài Gòn (viết theo Hán Việt Sài Côn) – đây là lần đầu tiên chữ Sài Gòn xuất hiện trong sách vở. Như vậy thì phải ở đủ lâu, đủ xa mới nhớ, chứ chưa hẳn “chưa xa đã nhớ”. Và từ kết quả đó, chúng ta có một gia tài sách về Sài Gòn, nơi niềm vui lớn nhất thuộc về các độc giả.
Lý Đợi