Khai dân trí – Chấn dân khí – Hậu dân sinh
Câu nói của Phan Châu Trinh lý giải vì sao tuổi đời không cao nhưng các sĩ phu thời bấy giờ đã gọi ông là “cụ Phan” một cách kính trọng.
“Tôi xin nói thực với các anh, tôi đã bỏ hai phần ba đời tôi để tìm lấy thuốc mà chữa trị cho nước nhà. Thông minh tôi tuy kém, tài trí tôi tuy hèn, nhưng trong buổi giao thời này tôi có thể dám nói rằng: cái trách nhiệm của nòi giống dân tộc Việt Nam tôi quyết không nhường cho ai cả”.
Câu nói đậm “chất Quảng Nam” của Phan Châu Trinh lý giải vì sao tuổi đời không cao nhưng các sĩ phu thời bấy giờ đã gọi ông là “cụ Phan” một cách kính trọng.
Không nhường cho ai
“Không nhường cho ai” nên tuy đã đỗ phó bảng, đã có một chức quan trong bộ lễ của triều đình Huế nhưng Phan Châu Trinh không cam phận làm quan. Cùng với những nhà Nho yêu nước, ông ngày đêm suy nghĩ, học hỏi hòng tìm một con đường đưa dân tộc thoát vòng nô lệ.
Học đủ cổ thư, ông dành ra nhiều thời gian đọc tân thư và những chuyển biến tư tưởng đã đến từ đây. Ông hướng đến con đường giải phóng bằng tự lực, tự cường, bằng khai mở văn hóa, khai sáng con người, mà trước hết là tự nhìn nhận những yếu kém, thua sút.
Ông viết: “Than ôi! Nước Nam bây giờ dân khí yếu hèn, dân trí thì mờ tối, ví với các nước châu Âu, châu Á cách xa không biết bao nhiêu dặm đường…”.
Có đặt vào hoàn cảnh lịch sử, xã hội, văn hóa, dân trí thật sự mờ tối của năm 1903 mới thấy được giá trị vượt thời đại của lời tự thán minh triết này. Học giả Hoàng Xuân Hãn phân tích: “Sau khi phong trào Cần vương bị đàn áp tan rã hoàn toàn, Phan Châu Trinh đã đi sâu nghiên cứu những nhược điểm cơ bản về văn hóa, xã hội Việt Nam. Cụ thấy rõ nguyên nhân sâu xa đã đưa đến mất nước là sự thua kém của xã hội ta so với phương Tây. Phan Châu Trinh đã đưa ra một đường lối mới để tìm lối thoát cứu nước…”.
Đường lối mà Phan Châu Trinh tìm ra: “Chỉ nên trông cậy ở chính mình, chớ vọng ngoại vì vọng ngoại ắt là chết. Hãy coi trọng nền hòa bình của đất nước nếu chúng ta không muốn mua lấy cái chết. Sự giải thoát của chúng ta nằm chủ yếu trong sự học hành, mở mang trí tuệ”.
Tự nhận về mình trách nhiệm lớn lao, “không nhường cho ai”, Phan Châu Trinh từ quan. Mọi hoạt động của ông từ đây chỉ tập trung cho một mục đích: duy tân – con đường mới tươi sáng cho dân tộc, đất nước.
Ông viết Tỉnh quốc hồn ca gửi nhân dân; viết Điều trần gửi Toàn quyền Pháp; viết Chí thành thông thánh, Đông Dương chính trị luận gửi các nhân sĩ trí thức; viết Thư thất điều gửi vua Khải Định; viết Quân trị chủ nghĩa, Dân trị chủ nghĩa nói chuyện với đồng bào; viết báo, làm thơ…
Ông tham gia sáng lập Trường Đông Kinh nghĩa thục, Trường Dục Thanh và nhiều trường khác của các nhà Nho yêu nước, vận động mở tòa báo, vận động bỏ hủ tục, mê tín dị đoan, phổ biến chữ quốc ngữ, lập hội học, hội buôn, hội diễn thuyết… hòng mở mang tri thức, củng cố kinh tế.
Ông động viên từng người dân: “Xét lịch sử xưa, dân nào khôn ngoan, biết lo tự cường tự lập, mua lấy sự ích lợi chung của mình thì ngày càng bước tới con đường vui vẻ. Còn dân ngu dại, cứ ngồi yên mà nhờ trời, mong đợi trông cậy ở quan, giao phó tất cả quyền lợi của mình vào trong tay một người hay một chính phủ muốn làm sao thì làm mà mình không hành động, không kiểm xét thì dân ấy phải khốn khổ mọi đường”.
“Gian nan chi kể việc con con”
Khi những tư tưởng tự lập, tự đấu tranh cho quyền lợi của mình đã thấm vào người dân, cuộc Trung kỳ dân biến chống sưu thuế nổ ra như một quả bom.
Dù không phải người tổ chức trực tiếp, thực dân Pháp vẫn đày Phan Châu Trinh ra Côn Lôn (tức Côn Đảo – PV) vì nhận thức rõ tầm ảnh hưởng của ông. Phan Châu Trinh điềm tĩnh đón nhận thử thách cùng các đồng chí mình, những ngón tay quen dùng bút lông điềm tĩnh cầm búa đập đá, điềm tĩnh ngâm ngợi: “Những kẻ vá trời khi lỡ bước/ Gian nan chi kể việc con con”.
Sau khi được thả trước thời hạn nhờ can thiệp của Hội Nhân quyền Pháp, bị quản thúc ở Mỹ Tho, Phan Châu Trinh vận động để được đưa sang Pháp, mục đích không ngoài việc tiếp tục học hỏi cái hay, cái mới để tiếp tục công cuộc “Khai dân trí – Chấn dân khí – Hậu dân sinh”. Sau 14 năm ở xứ người, ông lại trở về say mê tiếp tục cuộc duy tân.
Hơn 80 năm sau, bà Phan Thị Minh (tức Lê Thị Kinh), cháu ngoại của ông, đã hai lần sang Pháp, ăn ngủ ở thư khố, Cục Lưu trữ quốc gia để sao lục, dịch thuật hàng ngàn trang tư liệu gồm thư trao đổi giữa nhà cầm quyền Pháp và Đông Dương về Phan Châu Trinh, những báo cáo của mật thám Pháp được giao theo sát từng hoạt động của ông và bạn bè, đồng chí từng ngày, từng giờ, những bản thảo mà mật thám đã lấy được…
Tại nhà lưu niệm Phan Châu Trinh ở Đà Nẵng đầy những báu vật bằng giấy ấy, bà Minh run run xúc động kể: “Khi tôi 1 tuổi, được mẹ bồng vào Sài Gòn thăm ông ngoại (bà Minh là con bà Phan Thị Châu Liên, con gái lớn của cụ Phan – PV).
Ấy là những ngày cuối cùng của cụ Phan, cũng là những ngày ít ỏi mẹ tôi được gần cha mình. Cả đời cụ bôn ba hoạt động khiến các con gái gần như lớn lên trong cảnh không cha…
Tôi được cha mẹ giao lại những bản thảo mà cụ Phan đã mang theo bên người khi ông ra Bắc, vào Nam, sang Pháp, và đến lượt cha mẹ tôi khổ công gìn giữ: nào rang gạo chống ẩm, rang hồ tiêu chống mối, bỏ vào chum sành chôn giấu mỗi khi chạy bom đạn… Bắt tay vào nghiên cứu cụ ở tuổi 70, nhiều thông tin khiến tôi phải rớt nước mắt”.
Quả là muốn rớt nước mắt khi đọc những báo cáo của mật thám: việc chấm sửa ảnh kiếm không đủ chi phí, Phan Châu Trinh dọn sang chỗ khác để tiết kiệm tiền thuê nhà; Phan Châu Trinh ốm nặng không đủ sức đi làm sau khi nghe tin con trai mất…
Và những kết luận khách quan đượm phần kính nể của Sở mật vụ Pháp: “Phải công bằng mà thừa nhận cuộc sống của Phan Châu Trinh là đáng kính trọng. Y mang tinh thần dân tộc rất cao mà y không hề giấu giếm với các đồng bào y ở đây và cả với những người Pháp…”.
14 năm ở Pháp, vật lộn với cuộc mưu sinh, với những mùa đông lạnh giá không đủ thức ăn, sưởi ấm, với ngôn ngữ và văn hóa xa lạ, với quan điểm chính trị khác nhau của những người cùng yêu nước, với những mất mát, đau khổ riêng tư…
Đấu tranh để được về nước, ông chỉ còn kịp tổ chức hai cuộc diễn thuyết giữa Sài Gòn. Tài liệu của Sở mật thám Nam kỳ còn ghi rõ: “Tối 27/11/1925, mặc dù bị sốt rất cao, Phan Châu Trinh vẫn quyết thực hiện buổi diễn thuyết thứ hai nhằm tăng thêm uy tín của ông ở Nam kỳ…”.
Hôm ấy ông đã chỉ ra: cần phải thay chế độ quân trị bằng dân trị. “Dân trị tức là pháp trị. Quyền hạn và bổn phận của mỗi người trong nước, bất kỳ người làm việc nhà nước hay người thường đều có pháp luật chỉ định rõ ràng, không khác gì là đã có đường gạch sẵn, cứ trong đường ấy mà đi, tự do bước tới bao nhiêu cũng được, không ai ngăn trở cả”.
Các nhân sĩ ở miền Trung, Hà Nội nức lòng chờ Phan Châu Trinh ra diễn thuyết, nhưng rồi ông đã không vượt qua được số phận…
Phạm Vũ
Theo Tuổi Trẻ Online