Đi tìm một chữ bị xóa trên tấm bia cổ
Tại chùa Cầu (Lai Viễn kiều) ở Hội An, có một tấm bia bằng sa thạch nằm ở phía đông đầu đường Trần Phú thuộc làng Minh Hương, thường được gọi là bia Chùa Cầu hay bia Trùng tu Lai Viễn kiều. Nhưng một vết đạn vô tình của chiến tranh đã xóa mất một chữ trên một tấm bia cổ, làm cho đời sau phải “lao lư” đi tìm. Rất may vẫn còn có nơi lưu giữ để trả lại sự thật cho quá khứ!
Văn bia cổ và tác giả
Tấm bia có kích thước khá lớn 100cm x 50cm (chưa kể phần xi-măng bảo vệ bên ngoài) và có niên đại 1817, là năm chùa Cầu được trùng tu lần thứ hai. Lần trùng tu này được ghi lại, ngoài tấm bia đá này còn có một dòng chữ khắc trên xà gồ có nội dung: “Gia Long thập lục niên, tuế thứ Đinh Sửu, Ất Tỵ nguyệt, Mậu Tý nhật, Bính Thìn thời, Minh Hương xã, hương quan hương lão hương trưởng toàn xã đẳng đồng trùng tu” (Gia Long năm thứ 16, năm Đinh Sửu, tháng Ất Tỵ, ngày Mậu Tý, giờ Bính Thìn, các vị chức sắc cùng toàn dân xã Minh Hương trùng tu).
Tấm bia khắc bài Trùng tu Lai Viễn kiều ký do Chánh đốc học Dinh Quảng Nam Đinh Tường soạn, gồm 237 chữ Hán được phân bố làm “13 dòng thẳng đứng, đọc từ trái sang phải và từ trên xuống dưới, mỗi dòng ngữ nghĩa tùy theo văn lý mà chữ nhiều ít trồi sụt khác nhau” (Nguyễn Sinh Duy, Quảng Nam và những vấn đề sử học, NXB Văn hóa – Thông tin, năm 2006, trang 181).
Đinh Tường thực ra chỉ là tên hiệu, tên chính của ông là Đinh Phiên. Ông sinh năm 1764 tại làng La Giáp, tổng Kim Nguyên, huyện Chân Lộc, phủ Đức Quang, trấn Nghệ An (nay là xã Nghi Long, huyện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An). Khoa thi năm Quý Mão 1783, ông đậu Hương cống (cử nhân) tại trường thi Nghệ An. Năm 1787, ông đi thi Hội chỉ đỗ Tam trường (tương đương Phó bảng triều Nguyễn). Sau ông được bổ Toản tu Quốc sử quán triều Lê. Thời Tây Sơn, ông không ra làm quan mà về quê mở trường dạy học.
Khi Gia Long lên ngôi, ông được mời ra làm quan. Tháng 6 năm 1815, ông được bổ Đốc học Quảng Nam. Tháng 4 năm 1819, ông được rút về kinh, cử làm Phó sứ sang nhà Thanh.
Sang thời Minh Mạng, ông làm việc ở kinh tại bộ Lại rồi bộ Lễ. Ông cũng trải qua chức Toản tu ở Quốc sử quán, tiếp sứ thần nhà Thanh, làm giám thí và Tri cống cử các khoa thi Hương ở trường thi Nghệ An, Quảng Đức, Gia Định, Hà Nội và khoa thi Hội đầu tiên năm 1822. Thời kỳ làm việc ở kinh đô, Đinh Phiên được xem là đồng tác giả của bài Đế hệ thi và 10 bài Phiên hệ thi, mà lâu nay vẫn cứ tưởng của chỉ một mình vua Minh Mạng!
Trùng tu Lai Viễn kiều ký nổi tiếng không chỉ bởi nội dung văn bia, tác giả của nó mà còn một điều đặc biệt khác. Đó là ở dòng đầu của văn bia, một vết đạn vô tình của chiến tranh đã xóa mất một chữ. Đánh giá về bài ký Trùng tu Lai Viễn kiều, Nguyễn Sinh Duy viết: “Nếu chùa Cầu là biểu trưng phố cổ Hội An thì, có thể nói, Trùng tu Lai Viễn kiều ký là văn vật khảo cổ sáng giá trong số các di tích hiện còn tại chùa Cầu; vì nó hội đủ ba yếu tố văn, sử, địa” (sđd, trang 181)
Đi tìm một chữ bị xóa trên văn bia
Cho đến nay, văn bia chùa Cầu đã được phiên âm 4 lần và một lần dập lại để lưu trữ.
Lần thứ nhất là của cụ Cử nhân Trương Đồng Hiệp (1857 – 1926), một vị khoa bảng con cháu họ Trương của làng Minh Hương (đỗ khoa 1894). Bài Trùng tu Lai Viễn kiều ký là bài mở đầu trong tập thủ bút của cụ được lưu lại cho đến ngày nay. Chắc chắn bài được phiên âm trước năm 1926.
Đến thập niên 1940, Trùng tu Lai Viễn kiều ký được Viện Viễn Đông Bác cổ (E.F.E.O) in rập lại thành thác bản với 3 ký hiệu 259, 8360 và 19323 và hiện nay còn lưu lại ở kho Lưu trữ của Viện Hán Nôm Hà Nội.
Năm 1959, Dương Đức Nhự, Giáo sư ngôn ngữ học của Đại học Huế nhân chuyến đưa phái đoàn giáo sư và sinh viên của Nhật đến thăm Hội An đã phiên âm và dịch lại. Bản phiên âm và dịch của ông được đăng lại trong sách Hội An, thị xã anh hùng, NXB Trẻ, 2002.
Năm 1969, cụ Cử nhân Hán học Hồ Ngận (đỗ khoa 1918) đã phiên âm và dịch lại và sau đó đăng trên Quảng Nam Xưa&Nay (NXB Thanh Niên, 2004).
Nhà nghiên cứu Nguyễn Sinh Duy chỉ đọc 2 bản của Dương Đức Nhự và Hồ Ngận và phát hiện ra có sai lệch nhau một chữ ở dòng đầu: Bản của Dương Đức Nhự ghi là “tiểu khê”, bản của Hồ Ngận lại ghi là “nhất khê” (trong câu: Minh Hương Hội An phố giới ư Cẩm Phô hữu tiểu/ nhất khê, khê hữu kiều cổ dã).
Ông Duy đã tìm đến tận nơi để được “mục sở thị” nhưng chỗ đó không còn chữ nữa mà là “một lỗ đạn thời chiến tranh xoi thủng được trám lại bằng xi-măng” (sđd, trang 182). Qua nghiên cứu thực trạng ông cho rằng: “Chữ nhất khê của cụ Hồ Ngận có thể là thích đáng, vừa vặn với diện tích cách khoảng ấy” (trang 183).
Sau này, các nhà nghiên cứu Viện Viễn Đông Bác cổ tra lại bản của cụ Trương Đông Hiệp và Ngô Trí Long (dựa vào 3 thác bản ở Viện Hán Nôm) thì thấy chính xác là “yên khê” chứ không phải là “tiểu khê” hay “nhất khê” như của Dương Đức Nhự và Hồ Ngận.
Qua việc này chúng ta có thể nghĩ vết đạn xóa một chữ trên bia chùa Cầu diễn ra trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp 1945 – 1954 (sau khi Viện Viễn Đông Bác cổ dập văn bia và trước khi Dương Đức Nhự đưa đoàn khách Nhật đến Hội An) và có lẽ khi đứng trước “lỗ đạn được trám lại bằng xi-măng”, hai ông Dương Đức Nhự và Hồ Ngận đã “tự tiện” thêm vào dựa theo… “nhận định” của mình. Rất may “viên đạn vô tình của chiến tranh” chậm hơn so với những cố gắng của các nhà nghiên cứu ở Viện Viễn Đông Bác cổ. Và đây cũng là bài học sâu sắc cho các nhà nghiên cứu!
Bài & ảnh: Lê Thí
Theo Đà Nẵng Online