Đà Lạt, ma túy tình yêu và Lê Uyên Phương
LTS. Nhân kỷ niệm ngày mất của nhạc sĩ Lê Uyên Phương – 29/6, Chuyện Đà Lạt đã gửi đến bạn đọc bài viết của nhà văn Nguyễn Mạnh Trinh. Bài viết này từng được ông công bố vào năm 2009 trên một tờ báo ở hải ngoại. Người Đô Thị giới thiệu lại tư liệu đặc biệt này để bạn đọc hiểu thêm về một nhạc sĩ tài hoa, mà như nhà văn Nguyễn Mạnh Trinh nhận định: “Đến lúc nhắm mắt lìa đời, dường như Lê Uyên Phương vẫn còn mải mê với nhiều cơn mộng…”.
Cách nay đúng 10 năm, ngày 29/6/1999 là ngày từ trần của nhạc sĩ Lê Uyên Phương. Người thì đã mất nhưng những bản nhạc vẫn còn được hát và tiếp tục cuộc sống của nó, tạo cảm giác cho những người trẻ yêu nhau.
Bắt đầu với bản nhạc viết ở xứ Pleiku nắng bụi mưa sình “Buồn đến bao giờ” rồi đến những bản nhạc kế tiếp, nhạc Lê Uyên Phương đã thổi một luồng gió mới vào tân nhạc Việt Nam. Trong bối cảnh khốc liệt của một cuộc chiến tranh mà nỗi khắc khoải tương lai cũng như những băn khoăn từ ngày tháng hiện tại đã làm giới trẻ thấy gần gũi với những ca khúc của ông mà một thời được hát như lời rao giảng bàng bạc của trái tim dù đôi khi có nhuốm nét siêu hình của triết lý. Ngôn từ thiết tha, cung bậc âm thanh thầm thỉ đã làm những ca khúc như: Dạ khúc cho tình nhân, Còn nắng trên đồi, Lời gọi chân mây, Vũng lầy của chúng ta,.. một thời đã thành những lời ngỏ yêu thương cho cả một thế hệ.
Trước khi rời khỏi trần gian có lần Lê Uyên Phương đã tâm sự trong một cuộc phỏng vấn của Trường Kỳ:
“…Tôi nghĩ rằng cuộc đời này không có gì miên viễn. Cái gì nó cũng có cái lúc của nó. Tuổi trẻ tôi có rồi, khi tôi nghĩ lại thì, ồ, cái tuổi trẻ đó thật là tuyệt vời. Tôi có tình yêu rồi, tôi có tình yêu này, tôi có tình yêu khác. Tôi có một giây phút này,có giây phút khác. Tôi có tuổi cắp sách đến trường, tôi có những lúc tôi tìm kiếm những gì trong cuộc sống. Có những lúc tôi có, những lúc tôi mất. Tôi thấy tôi có hết, mà có những cái tôi thấy enjoy ghê gớm lắm. Nếu bây giờ nói, à, vì bây giờ cái đó nó là cái gì tuyệt vời lắm nên mình phải tìm lại nó nếu không thì nguy hiểm lắm, thì cái đó tôi không stupid để tôi làm. OK, đi, đi luôn đi! Nó có đó và nó mất rồi. Bây giờ khi nhìn sự việc như vậy thì tôi đâu có nghĩ là tôi phải mất mát cái gì đâu, tôi không nghĩ tôi phải sợ cái gì mà mất nó đâu!
Tôi không hối tiếc điều gì hết. Bây giờ tôi không nghĩ là đáng lẽ cái điều đó nó phải thế này thay vì nó phải như vậy. Không! Không! Tôi không nghĩ như thế. Đối với tôi không có chữ đáng lẽ. Nó phải như vậy, nó là như vậy rồi. Nó có đó, và nó mất đó. Giản dị thôi, không có gì hết. Tôi chỉ thấy có cái điều như thế này, tôi chỉ sợ một ngày nào đó khi tôi mở mắt ra tôi nhìn và tôi thấy không còn cái gì đẹp hết. Thấy mưa chán bỏ sừ! Thấy nắng chán muốn chết, làm nhạc thấy muốn khùng, muốn điên lên luôn… Tôi sợ cái đó ghê gớm lắm…”
Tự nhiên, khi nghe nhạc Lê Uyên Phương, tôi lại nhớ về Đà Lạt. Thành phố ấy, những giấc mơ thanh xuân, những ước vọng tuổi trẻ. Tôi tưởng tượng như khi mình đang sống giữa thành phố sương mù. Con đường rào rạt tiếng thông reo của những bình minh vừa ửng hồng. Giữa cái trong veo của thiên nhiên, thấy lòng trải ra những kỷ niệm.
Xuống con dốc, qua chợ Hòa Bình, đến thung lũng thấp hơn, khu Hồ Xuân Hương, bến xe. Leo lên con dốc nữa, Nhà thờ Con gà. Những cảnh gợi nhớ đến người, có lẽ hoài hoài trong trí nhớ… Không có Đà Lạt với rừng thông, với mây trời, không có những bãi cỏ xanh ngút ngàn mông mênh, không có những con dốc đầy hoa, chắc sẽ không có những ca khúc độc đáo mang tên Lê Uyên Phương.
Thành phố ấy, là nơi Lê Uyên Phương viết những bản nhạc đều tiên Khi loài thú xa nhau. Lúc tuổi trẻ, nhạc có nét hoang sơ của những lũng vắng, của mùi mật cỏ, của vị da thịt người tình. Bằng âm nhạc, bằng ngôn ngữ, là những bước chân khám phá giây phút linh thiêng lạ lùng của bà Eva cắn miếng táo cấm đầu tiên. Nhiều người phê phán sự ví von. Tại sao lại hạ thấp vị trí của con người như vậy. Nhưng phần đông, nhất là giới trẻ, lại ưa thích nồng nhiệt những bài hát mang cái tâm tư khắc khoải cùng những ước vọng, những đam mê rất thường, rất người. Những bài hát có một lúc đã thành một hiện tượng âm nhạc…
Nghe nhạc Lê Uyên Phương, những lúc buồn hay những khi vui, vẫn là một nhịp của trái tim hối hả. Tình yêu, khó mường tượng. Có lúc, là mượt mà da thịt của người nữ, gợi cảm, mời gọi. Nó gợi nhớ đến những giọt mồ hôi lóng lánh trên làn da mướt lông măng. Nhưng, cũng có lúc, là những cánh chim đơn lẻ chíu chít trên con phố sương mù, của bâng khuâng thoảng đến trong tâm thức.
Khi yêu nhau, bóng với hình lẫn lộn, thực lẫn mộng chỉ có tấc gang và bất hạnh cùng hạnh phúc kề cận nhau trong niềm nhòa nhạt của cuộc sống. Nghe nhạc Lê Uyên Phương, trái tim trẻ hoài, trẻ mãi… Khi tuổi đã lớn, ngẫm nghĩ từ ca từ, lắng nghe từng nốt nhạc, vẫn tìm thấy nhiều điều kỳ thú, mới lạ. Nhịp đập trái tim có khác với suy tư của lý trí? Hay xúc cảm có nhiều ngã rẽ, nhiều bước ngoặt. Từ trước, có nhiều người tìm hiểu và định nghĩa tình yêu. Và, hình như, đều có chung những kết luận không đầy đủ. Một sự bất lực của lý trí để giải nghĩa cho cảm xúc của con tim.
Cách nay hơn ba chục năm, năm 1973 ở Đà Lạt, Lê Uyên Phương đã viết những lời nhạc trong “Cất tiếng hát giữa đời”:
“Hãy thử hỏi lại, ta còn lại gì,
Trong trí nhớ nhỏ nhoi
Là một bầu trời xanh,
Là mối tình lành
Hay nhẹ nhàng nuối tiếc
Hãy thử hỏi lại,
Ta còn lại gì, trong trí nhớ nhỏ nhoi
Là cơn mưa đầu mùa
Là câu hát vu vơ
Hay một giây tuyệt vọng…”
Trong tập nhạc thưở ấy, “Con người, Một sinh vật nhân tạo”, nhạc sĩ đặt nhiều câu hỏi. Tùy mỗi người, câu trả lời sẽ dễ dàng hay khó khăn theo từng cá nhân cảm nhận. Với mọi người, câu trả lời đi gần với lý lẽ tự nhiên, kiểu như “ cuộc đời nó như thế, như vậy”. Nhưng, nếu ở người mà xúc cảm căng lên cao độ, như nhạc sĩ Lê Uyên Phương mà những nốt nhạc thăng hoa thành cao ngất cảm giác, thì khác. Bầu trời xanh, cơn mưa đầu mùa, những lời ngỏ của bài hát tình, những câu đối thoại vu vơ ngơ ngẩn, những chiều mưa một mình con dốc,… tất cả thành khuôn cửa mở ra một lãnh thổ của tưởng tượng.
Ở đó, ngôn ngữ văn chương và cung bậc âm nhạc giao hòa, tưởng như ngàn xa vọng về. Hạt mưa, sợi nắng, chiếc lá, ngọn gió,… không đơn thuần là vật chất, mà còn là tượng hình của cảm giác nào xa xôi lắm nhưng lại thân gần. Như hạt mưa, không chỉ là thuần túy hạt nước rơi xuống từ trời cao, mà nó gợi lại những nhịp điệu của âm vọng tiếng mưa trên mái tôn thuở thơ ấu nào. Hay giọt nắng, không phải chỉ là mầu vàng phai lóng lánh, mà còn gợi nhớ đến buổi sáng nào dìu em trên ngọn dốc, nghe mùi nhựa thông thoang thoảng giữa đất trời…
Lê Uyên Phương đã viết về ngày xưa, lúc anh vừa viết những bản tình ca cho tuổi trẻ muôn năm. Không phải là không khí của những phòng trà nồng nặc mùi khói thuốc của những trang sách hiện sinh vẽ ra. Mà, lúc ấy, còn có bóng dáng của chiến tranh, của những nỗi niềm tuổi trẻ. (Nhạc trẻ – tôi vẫn không thích cái từ ngữ gộp chung cho các loại nhạc thật sự cho tuổi trẻ mà chỉ là những bài hát lai căng hát để phục vụ cho nhu cầu đầu tiên của các sân khấu dành cho quân nhân ngoại quốc…).
Viết về Đà Lạt, nhạc sĩ như người trở về thánh địa xưa của mình, của hồi ức mang mang, của những phút giây chẳng thể nào quên được:
“… không thể nào quên được những đêm thật tuyệt vời của Đà Lạt vào những năm của thập niên 60. chúng tôi, như phần đông những người trẻ lúc đó, thường hay la cà khắp các quán cà phê ở Đà Lạt, nhất là cà phê Tùng gần chợ Hòa Bình. Cái phòng vuông vức với những hàng ghế liền bọc plastic đỏ, những chiếc bàn thật thấp, trên tường có một bức tranh lớn vẽ một người chơi guitar theo lối nửa lập thể, nửa ấn tượng, và cái không gian đầy khói thuốc trộn lẫn với âm nhạc nhẹ phát ra từ chiếc loa không lớn lắm đặt trên cao, tất cả đã trở thành một thứ ma túy đối với chúng tôi…
…một bài hát mà lúc bấy giờ chúng tôi ai cũng ưa thích, bài “J’Entend Soufflet le Train”, tôi không nhớ ai đã hát bài hát đó, nhưng cái âm hưởng vừa gần gũi vừa xa vắng của bài hát – như một tiếng còi tàu – đã thể hiện đúng tâm trạng của chúng tôi lúc bấy giờ. Phải chăng trong sự thôi thúc của đời sống, trái tim ta đôi lúc cũng bắt gặp được cái nhịp đập bất thường rất kỳ diệu của cuộc đời và trong mỗi khối óc của chúng ta, một số những tế bào não bộ đã hiểu biết được đôi điều về cái đẹp vô cùng của sự não nề trong kiếp sống.
Trong cái bấp bênh của cuộc sống lúc bấy giờ và trong cái xao xuyến không cùng của trí óc, âm nhạc đã tự nhiên có sức quyến rũ đặc biệt đối với chúng tôi. Không có thời kỳ nào mà âm nhạc lại đóng vai trò tuyệt vời đến như thế, nó thâm nhập vào con tim chúng ta và biến mọi lo âu của cuộc đời thành một niềm hoan lạc mới
… hãy ngồi xuống đây vai kề sát vai, cho da thịt này đốt cháy thương đau, cho cơn buồn này rót nóng truy hoan, cho thiên đường này, đốt cháy trong cơn chia phôi, chia phôi tràn trề, hãy ngồi xuống đây bên con vực này, ngó xuống thương đau..
… Những quán cà phê lúc bấy giờ đã thực sự trở thành cái nhà của chúng tôi, ngoài giờ đi làm, đi học ra, quán cà phê là nơi chúng tôi thường xuyên có mặt, bất kể ngày đêm, ở đó chúng tôi có thể tìm gặp những người hiểu được mình và có thể thổ lộ mọi điều riêng tư mà không ai phàn nàn gì cả…”
Bây giờ, tôi đang nằm nghe nhạc Lê Uyên Phương. Một người bạn, rất yêu nhạc của anh đã thu tất cả những bản nhạc anh thành một bộ tặng tôi. Nghe nhạc một mình cũng có cái thú nhất là vào những ngày lạnh chớm đông như hôm nay. Trong căn nhà vắng lặng, qua cửa kính nhìn thấy trời và biển, dõi những con chim chao lượn,thấy nhạc và lời như có ý vị hơn. Con tim như có khi xao xuyến. Một thuở nào, như sống lại, thoảng khi…
Tự nhiên, nhớ lại lúc còn trẻ, lúc mà các quán cà phê hầu như ở toàn miền Nam đều mở nhạc Lê Uyên Phương. Những năm của thập niên 70.
Những tối mưa dầm ở Pleiku, tôi đã nghe “Khi loài thú xa nhau” , đã nghe “Yêu nhau khi còn thơ”. Mưa sùi sụt nỉ non làm ẩm ướt cả ngày cái phố núi lạnh căm. Cả bọn ghé vào quán cà phê. Thật kỳ lạ, dường như nhạc của Phương phải để cho Lê Uyên hát. Giọng hát hơi khàn có pha ma túy của mê đắm tình yêu, khiến sự giao cảm thành giác quan rung động. Những nốt láy, những dấu nhấn, những lên cao và xuống thấp thành òa vỡ cảm nhận đến độ rợn người lúc ấy. Bên ngoài trời mưa, gió ào ào qua khuôn cửa, ngồi chung với mấy đứa bạn, thấy cuộc sống như có chút gì tạm bợ , chút gì bâng khuâng.
Ngày mai, có đứa ở trại Biệt Động Quân Biên Phòng phải trở về đơn vị vào trong tôi ngủ nhờ. Nó vừa cười vừa hỏi “Đêm nay có mục gì không? hay là gọi một em cho vui… ”. Câu thơ Nguyễn Bắc Sơn lại trở về với tôi trong trí nhớ. Lúc ấy, thời buổi chiến tranh, nào biết được đứa nào còn đứa nào mất. Chuyện hiện tại, chỉ biết được đến ngày hôm nay. Đời sống ngắn ngủi nên tình yêu cũng vội vàng. Nghe nhạc Lê Uyên Phương như nghe một thông điệp nào mà mọi người đồng vọng. Cất tiếng hát, dù chỉ trong một sát na, mà, sao vang vọng vô tận muôn năm. Bài “Cất tiếng hát giữa đời”:
“Tôi đang làm một con chim giữa đời, cất tiếng hát để đánh thức bình minh
những tiếng hát ngắn một giây đồng hồ, nhưng dài bằng thế kỷ
Tôi đang làm một con chim giữa đời, cất tiếng hát để đánh thức con tim
Những tiếng hát ngắn một giây đồng hồ, nhưng cả bằng cả cuộc đời”
Ngồi trong quán, đếm những hạt mưa, nhìn thời gian nhẹ rớt trong phin cà phê đen, nghe lời nhạc thì thầm, bạn bè dăm ba đứa thú vị và cảm khái nào hơn. Mãi sau này, làm sao tìm lại được những giây phút bốc đồng bất cần đời ấy được. Tuổi thanh xuân, nhìn đời thẳng tắp, không khuất khúc. Tâm ý lúc nào cũng trong veo chân thật dù buồn hay vui. Tình yêu, thì, như đốt lửa bằng nhiệt huyết tuổi trẻ. Ngày mai, có khi chỉ là một chuỗi cười dài vô tư. Y hệt như bài hát “Dạ Khúc cho tình nhân”
“Ngày em thắp sao trời, chờ trăng gió lên khơi,mà mưa bão tơi bời,
một ngày mưa bão không rời, trên đôi môi thanh xuân, ướp hôn nồng trên gối đắm say, ánh sao trời theo gió rụng rơi đầy, cùng rớt bao nhiêu ngày hoang, cùng đếm bao nhiêu mộng tàn, ru người yêu dấu trong vùng trời đêm,
vừa hoa nở tươi môi, tình nhân đã xa xôi, đời ngăn cách nhau hoài,
một lần thôi đã không thôi, yêu nhau trong lo âu, biết bao lần tha thiết nhớ mong
lá hoa rừng mau xóa đường quay về, làm ánh sao đêm lẻ loi,
màu tối gương bùn đèn soi, ân tình sâu vẫn trong đời thủy chung…”
Nghe nhạc Lê Uyên Phương, sao nhớ lại ngày tuổi trẻ đầy mơ mộng. Lãng mạn của tầm mắt làm rộn rã nhịp đập của trái tim. Người nhạc sĩ, hơn ai hết là người làm mơ mộng thăng hoa, làm người thắp sao trời, đem tinh tú trang trí cho bầu trời đêm, như ánh trăng làm mượt làn da, làm huyền chân tóc. Lê Uyên Phương đã viết về những giấc mơ của mình trong “Không có mây trên thành phố Los Angeles”:
“… Tôi đã mơ đến một chân trời mở ra bất tận, tôi đã mơ đến những hải đảo, đến những dòng sông, đến những thành phố lạ tràn ngập ánh đèn, tôi đã mơ đến những bài hát sẽ được bay xa, bay xa mãi. Tôi đã mơ đến những nụ cười thân ái không xen lẫn một chút nghi kỵ sợ hãi nào; tôi đã mơ đến một tình người thật ấm áp không pha trộn những tranh chấp hèn mọn nào của cuộc sống; tôi đã mơ đến một cuộc sống không bị khô héo vì những độc dược của chủ nghĩa, vì những đeo đuổi mỏi mòn theo cơm áo. Chúng tôi đã mơ, đã mơ…Chúng tôi đã hát, đã hát… những điều gì đang vọng lại từ những ốc đảo chơ vơ, giữa một sa mạc mênh mông, giữa một biển cả không đâu là bờ bến?
Một sự thờ ơ, một niềm im lặng. Chúng ta đã thật quá bé nhỏ giữa cái thế giới rộng lớn này. Chúng ta lại càng bé nhỏ hơn giữa dòng thời gian tạo nên lịch sử nhân loại…”
Lúc sau này, ngoài những tập nhạc đã hoàn thành như “Yêu nhau khi còn thơ”, “Khi loài thú xa nhau”, “Uyên ương trong lồng”, “Bầu trời vẫn còn xanh”, “Con người, một sinh vật nhân tạo”, “Biển, kẻ phán xét cuối cùng”, “Trái tim kẻ lạ”, ‘Lục diệp tố”, anh còn phổ nhạc nhiều bài thơ của các thi sĩ đương thời như Nguyễn Xuân Thiệp, Phạm Công Thiện, Thái Tú Hạp, Kim Tuấn, Hoàng Khởi Phong, Huy Tưởng … (riêng tôi cũng ghé vào được vài bài thơ anh phổ nhạc )…
Đến lúc nhắm mắt lìa đời, dường như Lê Uyên Phương vẫn còn mải mê với nhiều cơn mộng. Dù một thời kỳ đã qua, một đời người đã xong, nhưng vẫn còn đó những bài hát, còn đó những phím đàn. Vẫn còn những ca khúc cất lên trong sôi nổi hào hứng của tuổi trẻ. Như khi tóc còn mướt xanh và mắt còn biếc thắm.
Anh Lộc (*), bây giờ chắc anh gần gũi lắm với suối nhạc của Bach, của Strauss, của Schuberg, của Beethoven,… Có khi nào anh trở về, ngồi lại và ghé thăm ngọn đồi thấp gần trường tiểu học thị xã “trước mặt là con đường dốc dẫn xuống Hồ Xuân Hương, dọc hai bên đường những cây mai hồng đang nở rộ, trông như những khóm bông gòn màu hồng nhạt lúc nào cũng tưởng chừng như sắp rời ra từng mảnh nhỏ dưới cơn gió chiều hiu hiu của Đà Lạt…”?
Nguyễn Mạnh Trinh
Theo nguoidothi.net.vn
(*) Lê Uyên Phương có tên chính là Lê Minh Lập, sinh ngày 2/2/1941 tại Đà Lạt và mất 29/6/1999 tại Nam California, Hoa Kỳ. Về tên thay đổi, theo tài liệu Wikipedia cho biết, trong thời kỳ chiến tranh, giấy tờ của Lê Uyên Phương bị thất lạc, trong hai lần làm lại giấy khai sinh, tên của anh bị nhân viên làm giấy tờ đánh nhầm thành Lê Minh Lộc rồi Lê Văn Lộc. Từ đó anh quyết định giữ tên sau là Lê Văn Lộc
Link nguồn: https://nguoidothi.net.vn/da-lat-ma-tuy-tinh-yeu-va-le-uyen-phuong-24194.html