Thương cảng xứ Quảng ngày ấy bây giờ…

Trong tuần lễ APEC 2017 diễn ra tại Đà Nẵng, có một sự kiện vô cùng độc đáo làm gợi nhớ lại quá khứ phồn vinh của những thương cảng xưa đất Quảng. Đó là Lễ tiếp nhận mô hình Châu ấn thuyền do tỉnh Nagasaki (Nhật Bản) tặng thành phố Hội An, với sự chứng kiến của Thủ tướng Nhật Bản Abe cùng Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc tại quảng trường sông Hoài, TP. Hội An.

Mô hình này sau đó được trưng bày tại Không gian văn hóa Việt Nam – Nhật Bản, nhằm đánh dấu bước phát triển bền chặt hơn nữa mối quan hệ giữa hai nước Việt – Nhật đã có từ hơn 400 năm trước.

Lễ tặng mô hình Châu ấn thuyền tại Hội An với sự chứng kiến của Thủ tướng Abe Nhật Bản cùng Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc
Lễ tặng mô hình Châu ấn thuyền tại Hội An với sự chứng kiến của Thủ tướng Abe Nhật Bản cùng Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc.

Châu ấn thuyền là loại thuyền buồm thương mại của Nhật Bản được cấp phép thông hành có dấu triện đỏ đi tới các cảng Đông Nam Á trong thời Mạc phủ Tokugawa nửa đầu thế kỷ 17. Trong số 71 chiếc Châu ấn thuyền cập bến Hội An (kể từ khi chúa Nguyễn Hoàng ở Đàng Trong đặt quan hệ với Mạc phủ Tokugawa cho đến lúc Tokugawa ra lệnh bế môn tỏa cảng), nhiều thương nhân Nhật Bản đã đến Hội An giao thương, đặt nền móng cho mối bang giao giữa Việt Nam và Nhật Bản trong quá khứ cho đến ngày nay. Điều thú vị, tại buổi lễ, đám cưới của Công nữ Ngọc Hoa cùng thương nhân Nhật Araki Soutaro (một trong những thương nhân sang buôn bán tại Hội An và được chúa Nguyễn Phúc Nguyên gả nghĩa nữ là Công nữ Ngọc Hoa vào năm 1619) cũng được tái hiện diễn ra trên mô hình Châu ấn thuyền.

Nhắc lại sự kiện nói trên, để một lần nữa, chúng ta cần khẳng định, những hoạt động của các thương cảng xưa của xứ Quảng vẫn còn vang bóng và tác động không nhỏ đến đời sống kinh tế của đất nước trong bối cảnh hòa nhập thế giới hiện nay.

1.Mô hình Châu ấn thuyền do tỉnh Nagasaki (Nhật Bản) tặng thành phố Hội An
Mô hình Châu ấn thuyền do tỉnh Nagasaki (Nhật Bản) tặng thành phố Hội An.

Thương cảng xưa…

Thương cảng Hội An – một thuở vàng son

Theo những tài liệu lịch sử phổ biến, vào thế kỷ 9 và 10, dưới thời vương quốc Chăm Pa, Hội An có tên gọi Lâm ấp Phố đã từng là một thương cảng phát triển, với các thương thuyền đến từ Ả Rập, Ba Tư, Trung Quốc… Nhờ đặc điểm sông nước thuận lợi cùng với nhiều yếu tố thiên thời, địa lợi, nhân hòa, một lần nữa, đến thế kỷ 16, từ một “Chiêm cảng” bị suy tàn, thương cảng Hội An lại hồi sinh và phát triển hưng thịnh. Đây là giai đoạn vô số  thương nhân các quốc gia Trung Quốc, Nhật Bản, Ấn Độ, Xiêm (Thái Lan), Bồ Đào Nha, Hà Lan, Anh, Pháp… tấp nập tới Hội An để thực hiện giao thương, biến nơi này trở thành trung tâm điều phối cho các thương cảng miền Trung như Thanh Hà (Huế), Thị Nại (Bình Định) và cùng với các cảng Đồng Nai, Sài Gòn, Hà Tiên… trở thành những thương cảng trọng yếu ở Đàng Trong. Hơn thế nữa, với vai trò là trung tâm liên vùng, Hội An đã cùng với Goa (Ấn Độ), Ayutthaya (Siam), Malacca (Malaysia), Batavia (Indonesia), Luzon (Philippines)… nối kết với Formosa (Đài Loan), Ma Cao, Hạ Môn (Trung Quốc), Busan (Hàn Quốc) tạo nên một hệ thống thương mại hoàn chỉnh của khu vực Đông Nam Á. Tuy nhiên, đến  cuối thế kỷ 19, do một số yếu tố bất lợi khác nhau như chính sách bế quan tỏa cảng của vua Nguyễn, đồng thời sự xuất hiện của Đà Nẵng và đầu tư của Pháp vào thương cảng này đã khiến cho Hội An suy thoái dần và đánh mất vị thế của mình.

Thương cảng Hội An.
Thương cảng Hội An.

Thương cảng Đà Nẵng từng bước chuyển mình

Cần lưu ý, từ các thế kỷ 16, 17, khi thương cảng Hội An đang phát triển rực rỡ, thuyền buôn nước ngoài đã qua lại cửa biển Đà Nẵng; thông qua con sông Cổ Cò nối sông Hàn với sông Thu Bồn, cảng Đà Nẵng đã trở thành một “tiền cảng” của Hội An, một cửa ngõ quan trọng đón đưa những thương thuyền của các nước như: Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha, Nhật Bản, Trung Quốc… ra vào phố Hội. Đến đầu thế kỷ 18, vị trí tiền cảng của Đà Nẵng dần dần trở thành thương cảng thay thế cho Hội An, nhất là khi kỹ thuật đóng tàu ở châu Âu phát triển với những loại tàu thuyền lớn, đáy sâu, ra vào vịnh Đà Nẵng dễ dàng hơn. Cảng Đà Nẵng với các yếu tố thiên thời, địa lợi của mình đã vươn lên trở thành một hải cảng lớn của đất nước, thay thế vị trí của thương cảng quốc tế Hội An.

Đà Nẵng trong Ô Châu cận lục không phải là một địa danh hành chính mà chỉ là tên gọi của một cửa biển. Các vua triều Nguyễn từ Gia Long đến cả Tự Đức nghiêng về ý nghĩa phòng thủ của nơi này hơn là phát triển Đà Nẵng thành một đô thị sầm uất. Vì vậy mà thời kì này Đà Nẵng được gọi là một “tấn”, tức là một vị trí trọng yếu phòng thủ. Cho đến khi Pháp khai hỏa xâm chiếm thì Đà Nẵng vẫn chỉ là một vị trí, một địa bàn chiến lược về quân sự và chưa từng là một địa danh chỉ đơn vị hành chính.

Cảng Trường Hải.
Cảng Trường Hải.

Năm 1835, khi vua Minh Mạng có dụ: “Tàu Tây chỉ được đậu tại Cửa Hàn, còn các cửa biển khác không được tới buôn bán” thì Đà Nẵng chuyển mình trở thành một thương cảng lớn bậc nhất miền Trung. Tiểu thủ công nghiệp địa phương phát triển mạnh với những nghề sơ chế nông lâm hải sản; dịch vụ thương mại cũng phát đạt và đặc biệt là ngành sửa chữa tàu thuyền. Năm 1901, thực dân Pháp chính thức khởi công xây dựng cảng Đà Nẵng nhằm phục vụ cho chính sách khai thác thuộc địa của Pháp ở Việt Nam và Đông Dương. Cảng Đà Nẵng trở thành một hải cảng quan trọng trong hệ thống quân cảng và thương cảng của thực dân Pháp và sau này là chính thể VNCH.

Sinh thời, nhà văn Nguyễn Văn Xuân khi nhắc đến những tiềm lực của các thương cảng xưa trên đất Quảng thường tiếc nuối về việc người Anh đã từng nhắm đến Cù Lao Chàm và Đà Nẵng trước cả Hồng Kông. Công ty Đông Ấn của nước này đã đến Hội An vào năm 1613. Sự giao thiệp thất bại. Sau đó họ ra Bắc, rồi trở lại Đàng Trong nhiều lần vẫn thất bại. Nhà văn Nguyễn Văn Xuân nêu rõ: “Ba lần Anh đặt vấn đề Đà Nẵng – Cù Lao Chàm trước Hongkong và đều không thành. Nhưng Anh chưa chịu rút lui hẳn. Sau khi quân Pháp bắn phá toàn hạm đội tàu đồng của ta ở vịnh Đà Nẵng 1874 (vua Thiệu Trị có lẽ bị xúc động mãnh liệt và mất vào năm ấy) người Anh liền lợi dụng thời cơ đặt lại vấn đề Đà Nẵng. Đặt câu hỏi giá như các vua Nguyễn chấp nhận những đề nghị của người Anh để biến khu vực này thành cơ sở thương mãi vào những năm 1804 hoặc 1821-1822 thì liệu nước ta có một số mệnh khác như thế nào?” (Cù Lao Chàm và Đà Nẵng với người Anh, KH&PT số 55-56,1998).

Thương cảng xứ Quảng hiện nay

Từ thương cảng Tourane đến hải cảng quốc tế

Sau ngày đất nước thống nhất 1975, Ban giao thông Khu V được giao nhiệm vụ tiếp quản Cảng Đà Nẵng, đảm nhận vai trò rất quan trọng là phục vụ tái thiết đất nước sau chiến tranh, bảo vệ chủ quyền, đối ngoại và phát triển kinh tế. Tuy nhiên, lúc này, Cảng Đà Nẵng cũng như nhiều công trình trọng điểm của thành phố đều bị hư hại và xuống cấp nghiêm trọng.

Thời điểm ấy lượng hàng hóa cập cảng chủ yếu từ Liên Xô và các nước XHCN. Giai đoạn thật sự chật vật của Cảng Đà Nẵng bắt đầu từ những năm 1990, khi Liên Xô và các nước XHCH bắt đầu suy thoái. Khó khăn ấy đã buộc Cảng Đà Nẵng phải tìm hướng đi mới trong việc bảo đảm việc làm, đời sống công nhân và duy trì hoạt động của cảng. Năm 1999, Cảng Đà Nẵng đón tấn hàng thứ một triệu, một cái mốc quan trọng đánh dấu sự phát triển của Cảng Đà Nẵng trong giai đoạn mới, để sau đó, tốc độ tăng trưởng của cảng liên tục đạt mức cao, tạo động lực cho sự phát triển cảng biển hiện đại.

Ông Nguyễn Thu, nguyên Tổng Giám đốc Cảng Đà Nẵng, nhắc lại: Từ những năm 2000, Cảng Đà Nẵng đã được đầu tư nâng cấp theo công nghệ cảng biển của Nhật Bản nhờ vậy mà có thể giải phóng lượng hàng hóa nhanh chóng. Hiện hệ thống cơ giới và tự động tại cảng chiếm 85%, nếu như trước đây phải có gần 1.900 lao động để bốc dỡ 530 nghìn tấn hàng hóa thì nay chỉ cần 794 người là bốc dỡ được 3,3 triệu tấn hàng. Ngoài ra, thương cảng Tourane ngày nào bây giờ sở hữu một ưu thế rất lớn đó là điểm cuối của tuyến Hành lang kinh tế Đông Tây, nối liền 4 nước Myanmar, Thái Lan, Lào và Việt Nam; là cửa ngõ chính hướng ra biển Đông cho hàng hóa quá cảnh của các nước trên và điểm đầu tiên tiếp nhận hàng hóa tàu thuyền của các nước trên thế giới. Đó là ưu thế thuận lợi để xây dựng cảng biển lớn và phát triển kinh tế biển… Cảng biển Đà Nẵng thực sự trở thành hải cảng mang tầm vóc quốc tế, điều mà có lẽ, 100 năm trước khi đặt viên gạch đầu tiên để xây dựng cảng biển Tourane, người Pháp đã nghĩ đến.

Cảng Đà Nẵng hiện nay là một cảng biển tổng hợp quốc gia, đầu mối khu vực (cảng loại I) của Việt Nam nằm trong nhóm cảng Trung Trung Bộ Việt Nam, đang được Chính phủ Việt Nam quy hoạch để trở thành một cảng cửa ngõ quốc tế (cảng loại IA) trong tương lai. Cảng Đà Nẵng có ba khu bến: Tiên Sa – Sơn Trà và Liên Chiểu, Thọ Quang.

Thương cảng Kỳ Hà

Sau khi Quảng Nam và Đà Nẵng tách thành hai đơn vị hành chính độc lập vào năm 1997, năm 2000, cùng với việc hình thành Khu kinh tế mở Chu Lai, Cảng Kỳ Hà (vốn trước đây là một cảng cá nhỏ phục vụ hậu cần nghề cá của huyện Núi Thành) được tỉnh Quảng Nam triển khai xây dựng. Sau hai năm xây dựng, cảng được đưa vào sử dụng năm 2002. Ngày 29/7/2016, Bộ Giao thông vận tải đã có Quyết định số 2369/QĐ-BGTVT phê duyệt Quy hoạch chi tiết nhóm cảng biển Trung Trung Bộ (nhóm 3) giai đoạn đến năm 2020, định hướng đến năm 2030. Theo đó, nhóm 3 gồm 6 cảng biển: Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên Huế, Đà Nẵng, Quảng Nam và Quảng Ngãi. Trong đó cảng biển Kỳ Hà được quy hoạch chi tiết như sau:

Cảng Kỳ Hà.
Cảng Kỳ Hà.

Cảng biển Kỳ Hà là cảng tổng hợp địa phương (loại II) có bến chuyên dùng, bao gồm các khu bến: Kỳ Hà, Tam Hiệp.

Khu bến Kỳ Hà: Là bến cảng tổng hợp, tiếp nhận tàu trọng tải 10.000 đến 20.000 tấn, có bến chuyên dùng xăng dầu, gas tiếp nhận tàu trọng tải từ 1.000 đến 5.000 tấn. Năng lực thông qua năm 2020 khoảng 2,6 đến 3,0 triệu tấn/năm, năm 2030 khoảng 4,7 đến 5,1 triệu tấn/năm.

Khu bến Tam Hiệp: Là bến cảng tổng hợp, có bến hàng lỏng, hàng chuyên dùng phục vụ trực tiếp Khu kinh tế mở Chu Lai; tiếp nhận tàu trọng tải từ 10.000 đến 20.000 tấn. Năng lực thông qua năm 2020 khoảng 3,2 đến 3,7 triệu tấn/năm, năm 2030 khoảng 8,5 đến 9,2 triệu tấn/năm.

Nhìn lại một chặng đường dài phát triển, dù phải trải qua biết bao biến đổi thăng trầm, nhưng những thương cảng của xứ Quảng vẫn luôn giữ một vai trò nhất định, vượt mọi bão táp phong ba, đồng hành cùng những khát vọng dân tộc, vươn ra biển lớn sánh vai cùng bè bạn năm châu.

Châu ấn thuyền (朱印船 Shuinsen) là loại thuyền buồm thương mại có trang bị vũ trang, được cấp giấy phép thông hành có dấu triện đỏ (shuinjô) nhằm đi tới các cảng Đông Nam Á trong thời Mạc phủ Tokugawa, nửa đầu thế kỷ 17. Khoảng từ năm 1600 đến 1635, hơn 350 Châu ấn thuyền đã vượt biển ra khơi dưới giấy phép thông hành này. Mô hình Châu ấn thuyền đã được phục chế và trưng bày tại bảo tàng Nagasaki từ nhiều năm qua.

Năm 1620, Araki Soutaro đưa vợ về quê hương Nagasaki của ông trên một chiếc Châu ấn thuyền. Công nữ Ngọc Hoa trở thành người Việt đầu tiên lấy chồng Nhật. Tại Nagasaki, Công nữ Ngọc Hoa được người dân địa phương yêu mến, gọi bằng tên thân mật là Anio. Bà mất năm 1645, được chôn cất tại Đại Âm tự, ngay trung tâm thành phố Nagasaki. Hàng năm, tại lễ hội Okunchi  Matsuri hình ảnh Araki Soutaro cùng vợ đứng dưới cánh buồm trên chiếc Châu ấn thuyền được người dân Nagasaki tái hiện một cách trang trọng.

 

Bài: Trần Trung Sáng

Ảnh: Minh Hải

Theo ấn phẩm 24h Sống Xanh

Cùng chuyên mục